Phần này mô tả một số tín hiệu Parallel ATA quan trọng nhất phải làm với cấu hình và lắp đặt ổ đĩa theo chi tiết. Đây là thông tin có thể giúp bạn hiểu, cho ví dụ tính năng lựa chọn cáp vận hành như thế nào.
Những tín hiệu Parallel ATA
Chân 20 được dùng như chân khóa cho định hướng cáp và không được kết nối vào giao diện. Chân này sẽ mất đi trong bất kỳ đầu nối ATA và cáp có lỗ chân 20 trên đầu nối được đóng lại để ngăn chặn cắm cáp ngược.
Chân 39 mang tín hiệu DASP (DASP: drive active/slave present) là tín hiệu thời gian được ghép kênh. Suốt kỳ khởi tạo bật nguồn, tín hiệu này cho biết liệu ổ đĩa phụ thuộc có hiện diện trên giao diện. Sau đó, mỗi ổ đĩa xác nhận tín hiệu này để cho biết nó hoạt động. Các ổ đĩa cũ hơn không ghép những chức năng này và đòi hỏi những thiết lập cầu nhảy đặc biệt để vận hành với các ổ đĩa khác. Tiêu chuẩn hóa chức năng này để cho phép cài đặt hai ổ đĩa tương thích là một trong những tính năng của tiêu chuẩn. Đây là lý do một số ổ đĩa yêu cầu cầu nhảy phụ (SP: slave present) trong khi những ổ đĩa khác không cần.
Pin 28 mang tín hiệu lựa chọn cáp (CSEL: cáp select). Ở một số ổ đĩa cũ hơn, chân này cũng mang tín hiệu đồng bộ hóa trụ quay (SPSYNC: spindle synchronization), nhưng tính năng này không còn thấy trong những ổ đĩa mới hơn. Chức năng CSEL được dùng khá rộng rãi và được thiết kế để kiểm soát thứ tự ổ đĩa chính (drive 0) hay phụ (drive 1) không đòi hỏi những thiết lập cầu nhảy trên các ổ đĩa. Nếu ổ đĩa thấy CSEL như được tiếp đất, ổ đĩa là chính (master); nếu CSEL mở, ổ đĩa là phụ (slave).
Bạn có thể lắp đặt cáp đặc biệt để nối CSEL có chọn lọc. Việc lắp đặt này thường được hoàn thành thông qua một cáp không có chân 28 ở đầu nối giữa, nhưng có trong các đầu nối ở mỗi đầu. Trong cách sắp xếp này, với một đầu nối cắm vào bo mạch chủ và hai ổ đĩa cài theo sự chọn lựa cáp, ổ đĩa cắm vào một đầu nối kia sẽ tự động được cấu hình như ổ đĩa chính (master), trong khi ổ đĩa gắn với đầu nối giữa sẽ được cấu hình như ổ đĩa phụ (slave). Lưu ý rằng mặc dầu điều này là sự sắp xếp phổ biến nhất, song cũng có thể làm các cáp ở đầu nối giữa là thành chính (và tại đầu là phụ), hay thậm chí dùng một sự sắp xếp cáp dạng Y, với đầu nối bus ATA ở giữa và mỗi ổ đĩa ở các đầu đối diện của sợi cáp. Một chân Y có đường CSEL được kết nối đến cùng, cho biết ổ đĩa chính: chân kia có đường CSEL mở (dây dẫn bị ngắt hay bị tháo gỡ), làm ổ đĩa phụ.
Cấu hình hai ổ đĩa Parallel ATA
Những lắp đặt ổ đĩa đôi Parallel ATA có thể khó hiểu bởi vì mỗi ổ đĩa có bộ điều khiển của chính nó và cả hai bộ điều khiển này phải hoạt động khi được nối kết vào cùng bus, ở đây có một cách để đảm bảo rằng chỉ có một trong hai bộ điều khiển sẽ đáp ứng lệnh tại một thời điểm.
Tiêu chuẩn ATA cung cấp tùy chọn vận hành trên bus AT với hai ổ đĩa trong cấu hình được nối hình bông cúc (daisy-chained configuration), ổ đĩa đầu tiên (drive 0) được gọi là chính (master) và ổ đĩa thứ hai (drive 1) được gọi là phụ (slave). Bạn định rõ ổ đĩa như chính hoặc phụ bằng cách thiết lập một cầu nhảy hay mạch chuyển trên ổ đĩa hay bằng cách dùng một đường đặc biệt trong giao diện được gọi là chân lựa chọn cáp (CS: cable select) và thiết lập cầu nhảy CS trên ổ đĩa.
Khi chỉ một ổ đĩa được cài đặt, bộ điều khiển đáp ứng tất cả lệnh từ hệ thống. Khi hai ổ đĩa được cài đặt (do đó, hai bộ điều khiển), hai bộ điều khiển nhận tất cả lệnh từ hệ thống. Kế tiếp mỗi bộ điều khiển phải được thiết lập để đáp ứng chỉ những lệnh cho chính nó. Trong tình huống này, một bộ điều khiển phải được định rõ như chính và ổ kia là phụ. Khi hệ thống gửi một lệnh cho ổ đĩa cụ thể, bộ điều khiển ở ổ đĩa kia phải tạm ngưng trong khi bộ điều khiển và ổ đĩa được lựa chọn hoạt động. Thiết lập cầu nhảy đối với ổ chính hay phụ cho phép khả năng tách lọc giữa hai bộ điều khiển bằng cách thiết lập một bit đặc biệt (bit DRV) trong ổ đĩa/thanh ghi đầu đọc của một khối lệnh.
Cấu hình các ổ đĩa ATA đơn giàn, như trường hợp với phần lớn những lắp đặt ổ đĩa đơn. Hay nó có thể là khó khăn, đặc biệt khi sử dụng hai ổ đĩa cũ hơn của hai nhà sản xuất khác nhau vào một dây cáp.
Đa số các ổ đĩa ATA có thể được cấu hình với bốn thiết lập có thể:
- Master (ổ đĩa đơn)
- Master (hai ổ đĩa)
- Slave (hai ổ đĩa)
- Cable select (Lựa chọn cáp).
Nhiều ổ đĩa đơn giản hóa điều này đối với ba thiết lập: master, slave và cable select. Bởi vì mỗi ổ đĩa ATA có bộ điều khiển của chính nó, bạn phải chỉ định cụ thể một ổ đĩa là chính (master) và ổ kia là phụ (slave). Không có sự phân biệt chức năng tồn tại giữa hai ổ đĩa, ngoại trừ ổ đĩa được chỉ định cụ thể là phụ sẽ xác nhận một tín hiệu được gọi là DASP sau khi điều chỉnh hệ thống báo cho ổ đĩa chính là ổ đĩa phụ hiện diện trong hệ thống. Kế tiếp ổ đĩa chính quan tâm đến việc lựa chọn ổ đĩa, nếu không nó phớt lờ. Chỉ định một ổ đĩa là phụ cũng thường gây ra trì hoãn việc quay vài giây để cho phép ổ đĩa chính đạt tốc độ và do vậy làm giám bớt việc tài trên nguồn điện cung cấp của hệ thống.
Cho đến khi có kỹ thuật ATA, không có hình thức triển khai nào được sử dụng. Một số công ty sản xuất ổ đĩa thậm chí dùng những phương pháp master/slave khác nhau cho các kiểu ổ đĩa khác nhau. Do những sự không tương thích này, một số ổ đĩa hoạt động với nhau chỉ trong thứ tự master/slave hay slave/master cụ thể. Tình huống này ảnh hưởng phần lớn các ổ đĩa IDE cũ hơn được giới thiệu trước khi có đặc điểm kỹ thuật ATA.
Đa phần các ổ đĩa hoàn toàn theo đặc điểm kỹ thuật ATA hiện nay chỉ cần một cầu nhảy (master/slave) cho sự cấu hình. Một số ít ổ đĩa cùng cần cầu nhảy phụ (slave present jumper). Bảng 1 thể hiện những thiết lập cầu nhảy được yêu cầu bởi phần lớn các ổ đĩa ATA.
Bảng 1: Những thiết lập cầu nhảy cho các phần lớn ổ đĩa tương thích ATA trên những cáp tiêu chuẩn
Tên cầu nhảy | Ổ Đĩa Đơn | Ổ Đĩa Đôi, chính | Ổ Đĩa Đôi, phụ |
Master (M/S) | On | On | Off |
Slave Present (SP) | Off | On | Off |
Cable Select (CS) | Off | Off | Off |
Lưu ý:
Nếu cáp lựa chọn được dùng (CS), cầu nhảy CS phải được đặt ở On và tất cả cầu nhảy khác nên là Off. Đầu nối cáp kế tiếp xác định ổ đĩa nào sẽ là chính hay phụ
Cầu nhảy chính cho biết ổ đĩa là chính hay phụ. Một số ổ đĩa cũng yêu cầu cầu nhảy phụ chỉ được dùng trong thiết lập ổ đĩa đôi và chỉ được cài đặt trên ổ đĩa chính, điều này hơi lộn xộn. Cầu nhảy này cho ổ đĩa chính biết ổ đĩa phụ được kèm theo. Với nhiều ổ đĩa Parallel ATA, cầu nhảy chính là tùy chọn và có thể không dùng. Lắp đặt cầu nhảy này không làm hại trong những trường hợp này và có thể loại trừ sự nhầm lẫn: tôi đề nghị bạn lắp đặt những cầu nhảy được liệt kê ở đây.
Lưu ý:
Nhận xét rằng một số ổ đĩa có những cầu nhảy này trên bo mạch điện ổ đĩa ở mặt đáy ổ đĩa, như vậy chúng không thể nhìn thấy từ phía sau
Để loại trừ sự nhầm lẫn qua những thiết lập master/slave, phần lớn hệ thống mới hơn dùng tùy chọn cáp. Cái này cần có hai điều. Thứ nhất là cáp Parallel ATA đặc dụng có tất cả đường dẫn kim loại, trừ chân 28, chạy từ đầu nối trên bo mạch đến cả hai đầu nối của ổ đĩa. Chân 28 được sử dụng cho lựa chọn cáp và được nối kết đến một trong những đầu nối ổ đĩa (ổ đĩa chính được dán nhãn) và không nối kết ổ đĩa khác (ổ đĩa phụ được dán nhãn). Cả hai ổ đĩa sau đó được cấu hình trong chế độ lựa chọn cáp qua cầu nhảy CS trên mỗi ổ đĩa.
Với lựa chọn cáp, ổ đĩa nhận những tín hiệu trên chân 28 tự động trở thành ổ đĩa chính và ổ đĩa kia thành ổ đĩa phụ. Phần lớn các cáp thực thi điều này bằng cách gỡ bỏ miếng cách nhiệt kim loại che lỗ chân 28 khó thấy. Những cáp khác có đoạn của phần cắt chân 28 rõ ràng trên cáp ở đoạn nào đó dọc theo dây. Do đây chỉ là sự sửa đổi nho đối với sợi cáp và có thể khó thấy, những cáp lựa chọn có những đầu nối ổ đĩa chính, ổ đĩa phụ và hệ thống được dán nhãn cho thấy cáp kiểm soát những tùy chọn này hơn là ổ đĩa. Tất cả cáp 80-conductor UltraATA đều được thiết kế để dùng cho việc lựa chọn cáp.
Với lựa chọn cáp, bạn đơn giản đặt cầu nhảy CS trên toàn bộ ổ đĩa và cắm ổ đĩa bạn muốn trở thành ổ đĩa chính vào đầu nối ổ đĩa chính được dán nhãn và cắm ổ đĩa bạn muốn trở thành ổ đĩa phụ vào đầu nối ở đĩa phụ được dán nhãn.
Yếu điểm duy nhất tôi thấy khi dùng lựa chọn cáp là nó có thể hạn chế cách cáp được theo tuyến như thế nào và nơi bạn đặt trên ổ đĩa mà trở thành ổ đĩa chính đối với ổ đĩa phụ bởi chúng phải được cắm vào những vị trí đầu nối cáp cụ thể.